Hổ - Panthera tigris
- Ngành: ĐỘNG VẬT CÓ XƯƠNG SỐNG
- Ngành Latin: CHORDATA
- Lớp: THÚ
- Lớp Latin: MAMMALIA
- Bộ: ĂN THỊT
- Bộ Latin: CARNIVORA
- Họ: Mèo
- Họ Latin: Felidae
- Chi Latin:
Hình Thái: Kích thước lớn nhất trong họ Mèo Felidae có thể nặng 200 - 250kg. Nền lông vàng hoặc vàng sáng, phần bụng trắng. Mặt và thân dọc có nhiều đen. Hổ dễ phân tích bằng các dải đen này. Thế giới có 5 phân loài hổ. Hổ sống ở vùng Đông Nam Á bao gồm cả Việt Nam thuộc phân loài Hổ Đông dương ( Panthera tigris corbetti Mazak, 1968) có kích thước nhỏ hơn các loài khác.
Sinh thái: Thức ăn gồm nhiều loài thú rừng và gia súc. Hổ sống và hoạt động ở vùng rừng núi với các loài rừng khác , kể cả các vùng cây bụi lau lách, trảng cỏ tranh trong rừng. Hổ có vùng hoạt động rất lớn. Chúng tôi không cố gắng sống, thường xuyên hoạt động di chuyển trong khu rừng của tỉnh 2 - 3 tỉnh cận, hoạt động ban đêm. Hổ có thể giải trí xung quanh năm nhưng tập trung vào một số tháng nhất định tùy từng vùng. Thời gian mang thai khoảng 100 ngày, mỗi bùng thường 2 - 3 con nhưng có thể hơn. Hổ con phân mẹ sống độc lập khi 18 – 28 tháng tuổi. Hổ cái bắt đầu sinh sản ở 3 – 4 năm tuổi, hổ đực trưởng thành chậm hơn 4 – 6 năm.
Trong Nước: Trong nước: Phân chia chiều rộng. Nơi thu mẫu: Lai Châu, Lào Cai, Bắc Kạn, Phú Yên, Khánh Hoà, Kontum, Gia Lai, Lâm Đồng, Tây Ninh, Biên Hòa.
Ngoài Nước: Thế giới: Bănglađét, Mianma, Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan, Lào, Cămpuchia.
Trạng thái bảo tồn: Trước đây, hổ tương đối phong phú trong các khu rừng già của cả nước. Hiện nay, kho lưu trữ của chúng đã giảm béo, ước tính còn không quá 150 cá thể, sống lang thang, đặc biệt ở các vùng rừng khác nhau.
Sách đỏ VN: CR
IUCN: EN
ND84: IB
Giá trị: thú thú vị, hiếm có giá trị nghiên cứu khoa học , đồng thời góp phần điều hòa số lượng cá thể quần thể bắn súng.
Nguồn: vncreatures