Bò rừng - Bos javanicus
- Ngành: ĐỘNG VẬT CÓ XƯƠNG SỐNG
- Ngành Latin: CHORDATA
- Lớp: THÚ
- Lớp Latin: MAMMALIA
- Bộ: GUỐC CHẴN
- Bộ Latin: ARTIODACTYLA
- Họ: Trâu Bò
- Họ Latin: Cervidae
- Chi Latin:
Hình Thái: Thân cỡ lớn. Dài tới 2,25m, trọng lượng 600 - 800kg. Đầu nhỏ, trán không lõm sâu, đỉnh trán giữa hai sừng không tạo thành gờ cao, không có đám lông trắng bẩn. Da dưới cổ kéo dài thành yếm nhỏ giữa cổ và ngực. Sừng nhỏ hơn sừng Bò tót, gốc sừng hình trụ, chỏm sừng nhọn, uốn cong ra phía trước. Bộ lông ở lưng màu vàng tươi chuyển sang mầu xám đen ở con già. Bụng mầu sáng hơn. Phần mông có đám lông mầu trắng rất rõ. Bốn chân từ kheo trở xuống có mầu trắng. Đuôi khá dài, có lông rậm.
Sinh thái: Thức ăn là cỏ, lá cây. Sinh sản vào tháng 6, 7. Thời gian có chửa 270 - 280 ngày. Mỗi năm đẻ 1 lứa, mỗi lứa 1 con. Thích sống ở những cánh rừng thưa thoáng mát, nhất là rừng khộp cây Họ: Dầu Dipterocarpacae, nơi ở thường là những khu rừng rậm rạp trong thung lũng. Những vùng núi cao, núi đá thường không thấy bò rừng. Bò rừng sống thành đàn từ 10 - 30 con. Hoạt động và kiếm ăn ban ngày. Do tập tính sống đàn mà ban đêm nghỉ ngơi chúng quây thành vòng tròn, con non, con già ở giữa, con tơ khỏe ở vòng ngoài bảo vệ chống kẻ thù tấn công.
Trong Nước: Trong nước: Kontum, Đắk Lắk, Đồng Nai, Bình Phước.
Ngoài Nước: Thế giới: Mianma, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia
Trạng thái bảo tồn: Trước đây bò rừng có vùng phân bố khá rộng ở cả giữa Biên Hoà, Bà Rịa - Vũng Tàu đến Phan Rí, Đắc Rinh, Phan Thiết, Lâm Đồng và dọc sông La Ngà. Ngày nay vùng phân bố đã bị thu hẹp khá nhiều. Số lượng còn không nhiều, vẫn bị săn bắn ở nhiều nơi, rừng bị tàn phá, vùng sống bị xâm lấn làm nương rẫy nên số lượng đã bị giảm đáng kể.
Sách đỏ VN: EN
IUCN: EN
ND84: IB
Giá trị: Loài quý hiếm của rừng nhiệt đới, có giá trị nghiên cứu khoa học. Góp phần điều hoà số lượng thực vật trong môi trường tự nhiên và cân bằng sinh thái.
Nguồn: vncreatures