Mang lớn - Muntiacus vuquangensis
- Ngành: ĐỘNG VẬT CÓ XƯƠNG SỐNG
- Ngành Latin: CHORDATA
- Lớp: THÚ
- Lớp Latin: MAMMALIA
- Bộ: GUỐC CHẴN
- Bộ Latin: ARTIODACTYLA
- Họ: Sừng Đặc
- Họ Latin: Cervidae
- Chi Latin:
Hình Thái: Là loài có kích thước trung bình trong họ Hươu nai Cervidae. Trọng lượng cơ thể khoảng 40 - 50kg. Mặt không có bờm hay túm lông trùm trước trán, lông có mầu vàng bóng với những sọc đen chạy dọc xuống đế gạc phía trong trán từ nhánh gạc nhỏ tới suốt tuyến trước trán. Tuyến trán nhô ra, dài khoảng 2 cm. với bờ mí gấp lên. Dọc tuyến trán có ít lông mịn mầu đen, hàng lông dài quanh tuyến đổ về phía sau. Tuyến lệ có dải lông mịn mầu sẫm. Thân phần lưng sẫm hơn phần bụng. Từ cổ xuống lưng có một sọc mầu sẫm. Túm lông đuôi mầu sẫm, mặt dưới đuôi mầu trắng. Con đực có sừng (gạc) khá lớn.
Sinh thái: Thức ăn chủ yếu là cỏ, lá cây. Chưa có dẫn liệu về sinh sản của Mang lớn. Sống trong rừng già, rừng thứ sinh, savan cỏ cây bụi. Hoạt động ban đêm, sống đơn lẻ, chỉ ghép đôi trong thời kỳ động dục.
Trong Nước: Trong nước: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Bình Định, Đăk Lắk, Lâm Đồng, Ninh Thuận.
Ngoài Nước: Thế giới: Lào.
Trạng thái bảo tồn: Vùng phân bố khá rộng chủ yếu ở các tỉnh miền Trung từ Nghệ An tới Ninh Thuận. Vùng sinh sống của chúng thường chung với loài Hoẵng, do chưa có biện pháp bảo vệ nên chúng vẫn bị săn bắn và bẫy bắt thường xuyên, số lượng ngày càng suy giảm. Do phá rừng làm nương rẫy, phát triển các vùng cây công nghiệp cũng làm mất nơi sinh sống và hạn chế vùng phân bố.
Sách đỏ VN:
IUCN:
ND84:
Giá trị: Loài mới cho thế giới, phát hiện lần đầu tiên ở Việt Nam 1994. Loài quý hiếm có giá trị bảo tồn nguồn gen, đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam (2000).
Nguồn: vncreatures